NHẠC CỤ NỔI TIẾNG Ở VIỆT NAM

Ngay từ thời cổ cư dân ở Việt Nam đã rất say mê âm nhạc. Đối với họ âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy trong quá trình phát triển lịch sử cư dân ở đây đã sáng tạo nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục cho con cháu truyền thống của ông cha, đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng và để bay lên với những ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai…

Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ một kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho tới những dạng có sự phát triển khá cao với những kỹ thuật diễn tấu tinh tế.

Dưới đây là các nhạc cụ không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam, mà còn là dấu ấn đối với nhiều bạn bè quốc tế.

Đàn bầu

Đàn bầu hay Độc huyền cầm là một loại đàn dây của người Việt. Đàn bầu được chia làm hai loại là: đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Đàn chỉ có một dây, có chiều dài chạy suốt thân đàn. Dây đàn được làm bằng tơ tằm, về sau thay bằng dây sắt, cần đàn ngày xưa được làm bằng tre, nay thường được thay thế bằng sừng trâu.

Bầu đàn làm bằng vỏ quả bầu nậm khô hoặc gỗ tiện hình nậm bầu. Trục lên dây bằng tre hoặc gỗ, được đặt áp sát vào phía người chơi đàn. Que gảy đàn được gót bằng giang hoặc song, có đầu nhọn và được làm bông lên. Chính đầu bông xơ này đã tạo cho tiếng đàn ấm hơn. Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cụ truyền thống của Việt Nam.

Đàn nhị

Đàn nhị hay đàn cò là một loại đàn thuộc bộ dây, nhóm kéo bằng cung vĩ. Cấu tạo gồm năm phần: cần đàn, thùng đàn, thủ đàn, ngựa đàn và dây đàn. Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng 8, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại.

Đàn nhị có kỹ thuật diễn tấu với những ngón vuốt, nhấn, rung khá đa dạng. Đây là nhạc cụ không thể thiếu trong các dàn nhạc như: nhã nhạc, phường bát âm, ban nhạc chầu văn, chèo, tuồng, cải lương.

Đàn tam thập lục

Đàn tam thập lục có mặt đàn cấu tạo hình thang cân làm bằng gỗ nhẹ và xốp. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng. Cần đàn bên trái có 36 móc để móc dây, cần đàn bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí, que đàn làm bằng hai thanh tre mỏng. Âm vực của tam thập lục khá rộng, khoảng gần 4 bát độ.

Nghệ sĩ chơi đàn sử dụng hai chiếc que tre mảnh gõ lên các dây đàn tạo nên âm thanh. Đàn tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc cho sân khấu chèo, cải lương. Đàn có thể đệm cho hát, độc tấu và tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Khèn

Khèn là nhạc cụ thuộc bộ hơi có cấu trúc khá phức tạp, gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau. Một đầu cắm xuyên qua bầu đàn hình bắp chuối làm hộp cộng hưởng. Nhạc cụ này khá quen thuộc với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, H’Mông,… Người Mường thổi khèn cho đệm hát, người H’Mông dùng tiếng khèn để giao duyên trai gái.

Khèn H’Mông có 6 ống, khèn Thái có 12 ống được bó thành 2 hàng và gọi là khèn bè. Khèn bè có âm sắc mảnh và giòn, mỗi ống phát ra một âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được làm bằng đồng hoặc bạc giát mỏng. Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1.5 quãng 8, có âm kéo dài

Cồng chiêng

Là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, xuất hiện từ thời văn hóa đồng thau Đông Sơn. Cồng chiêng được đúc bằng hợp kim đồng pha thiếc và chì. Loại có núm gọi là Cồng, không có núm gọi là Chiêng. Cồng, Chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.

Cồng chiêng có mặt trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Việt Nam. Cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một thứ không thể thiếu trong vòng đời mỗi con người, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là giá trị nghệ thuật đã được khẳng định trong đời sống văn hóa xã hội.

Đàn T’Rưng

Đàn T’Rưng thuộc họ nhạc cụ tự thân vang ở Tây Nguyên. Trong dân gian, đàn chỉ có từ 5 – 7 ống lồ ô, cắt dài ngắn khác nhau. Đàn T’Rưng chuyên nghiệp thì có khoảng 12 – 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn. Các ống này được kết vào hai sợi dây chạy song song làm thành câu đàn.

Khi chơi đàn, người ta dùng hai chiếc dùi bọc vải gõ lên các ống. Đàn có âm vực rộng gần 3 quãng 8, có thể đánh đồng âm hoặc chồng âm nhưng hai nốt phải cách nhau một quãng 8. Những ống to và dài phát ra âm trầm, những ống nhỏ và ngắn phát ra âm cao. Âm sắc của đàn T’Rưng hơi độc, tiếng không vang to, vang xa nhưng khá đặc biệt.

Đàn đá

Đàn đá là loại nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam. Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau, được chế tác bằng phương pháp gõ thô sơ. Đá to, dày cho âm trầm, đá nhỏ, mỏng thì cho âm cao. Vật liệu làm đàn là những loại đá có ở vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Những phiến đá vô tri, vô giác được chế tác thành nhạc cụ thật kỳ diệu. Từ những thanh đá ấy, tiếng của đại ngàn Tây Nguyên còn vang vọng đến ngày nay. Tiếng đàn như âm vang trầm hùng của núi rừng, thay cho lời kể, niềm an ủi lúc vui buồn trong cuộc sống.

Ngay từ thời cổ cư dân ở Việt Nam đã rất say mê âm nhạc. Đối với họ âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu. Bởi vậy trong quá trình phát triển lịch sử cư dân ở đây đã sáng tạo nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục cho con cháu truyền thống của ông cha, đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng và để bay lên với những ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai…

Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ một kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho tới những dạng có sự phát triển khá cao với những kỹ thuật diễn tấu tinh tế.

Dưới đây là các nhạc cụ không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam, mà còn là dấu ấn đối với nhiều bạn bè quốc tế.

Đàn bầu

Đàn bầu hay Độc huyền cầm là một loại đàn dây của người Việt. Đàn bầu được chia làm hai loại là: đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Đàn chỉ có một dây, có chiều dài chạy suốt thân đàn. Dây đàn được làm bằng tơ tằm, về sau thay bằng dây sắt, cần đàn ngày xưa được làm bằng tre, nay thường được thay thế bằng sừng trâu.

Bầu đàn làn bằng vỏ quả bầu nậm khô hoặc gỗ tiện hình nậm bầu. Trục lên dây bằng tre hoặc gỗ, được đặt áp sát vào phía người chơi đàn. Que gẩy đàn được gót bằng giang hoặc song, có đầu nhọn và được làm bông lên. Chính đầu bông xơ này đã tạo cho tiếng đàn ấm hơn. Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cụ truyền thống của Việt Nam.

Đàn nhị

Đàn nhị hay đàn cò là một loại đàn thuộc bộ dây, nhóm kéo bằng cung vĩ. Cấu tạo gồm năm phần: cần đàn, thùng đàn, thủ đàn, ngựa đàn và dây đàn. Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng 8, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại.

Đàn nhị có kỹ thuật diễn tấu với những ngón vuốt, nhấn, rung khá đa dạng. Đây là nhạc cụ không thể thiếu trong các dàn nhạc như: nhã nhạc, phường bát âm, ban nhạc chầu văn, chèo, tuồng, cải lương.

Đàn tam thập lục

Đàn tam thập lục có mặt đàn cấu tạo hình thang cân làm bằng gỗ nhẹ và xốp. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng. Cần đàn bên trái có 36 móc để móc dây, cần đàn bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí, que đàn làm bằng hai thanh tre mỏng. Âm vực của tam thập lục khá rộng, khoảng gần 4 bát độ.

Nghệ sĩ chơi đàn sử dụng hai chiếc que tre mảnh gõ lên các dây đàn tạo nên âm thanh. Đàn tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc cho sân khấu chèo, cải lương. Đàn có thể đệm cho hát, độc tấu và tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Khèn

Khèn là nhạc cụ thuộc bộ hơi có cấu trúc khá phức tạp, gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau. Một đầu cắm xuyên qua bầu đàn hình bắp chuối làm hộp cộng hưởng. Nhạc cụ này khá quen thuộc với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, H’Mông,… Người Mường thổi khèn cho đệm hát, người H’Mông dùng tiếng khèn để giao duyên trai gái.

Khèn H’Mông có 6 ống, khèn Thái có 12 ống được bó thành 2 hàng và gọi là khèn bè. Khèn bè có âm sắc mảnh và giòn, mỗi ống phát ra một âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được làm bằng đồng hoặc bạc giát mỏng. Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng khoảng 1.5 quãng 8, có âm kéo dài

Cồng chiêng

Là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, xuất hiện từ thời văn hóa đồng thau Đông Sơn. Cồng chiêng được đúc bằng hợp kim đồng pha thiếc và chì. Loại có núm gọi là Cồng, không có núm gọi là Chiêng. Cồng, Chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.

Cồng chiêng có mặt trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Việt Nam. Cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một thứ không thể thiếu trong vòng đời mỗi con người, âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên là giá trị nghệ thuật đã được khẳng định trong đời sống văn hóa xã hội.

Đàn T’Rưng

Đàn T’Rưng thuộc họ nhạc cụ tự thân vang ở Tây Nguyên. Trong dân gian, đàn chỉ có từ 5 – 7 ống lồ ô, cắt dài ngắn khác nhau. Đàn T’Rưng chuyên nghiệp thì có khoảng 12 – 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn. Các ống này được kết vào hai sợi dây chạy song song làm thành câu đàn.

Khi chơi đàn, người ta dùng hai chiếc dùi bọc vải gõ lên các ống. Đàn có âm vực rộng gần 3 quãng 8, có thể đánh đồng âm hoặc chồng âm nhưng hai nốt phải cách nhau một quãng 8. Những ống to và dài phát ra âm trầm, những ống nhỏ và ngắn phát ra âm cao. Âm sắc của đàn T’Rưng hơi độc, tiếng không vang to, vang xa nhưng khá đặc biệt.

Đàn đá

Đàn đá là loại nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam. Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau, được chế tác bằng phương pháp gõ thô sơ. Đá to, dày cho âm trầm, đá nhỏ, mỏng thì cho âm cao. Vật liệu làm đàn là những loại đá có ở vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Những phiến đá vô tri, vô giác được chế tác thành nhạc cụ thật kỳ diệu. Từ những thanh đá ấy, tiếng của đại ngàn Tây Nguyên còn vang vọng đến ngày nay. Tiếng đàn như âm vang trầm hùng của núi rừng, thay cho lời kể, niềm an ủi lúc vui buồn trong cuộc sống

reviewnhaccu