Nhạc cụ phương Đông

Lịch sử âm nhạc Phương Đông được phân theo khu vực, phân theo đặc trưng âm nhạc của từng vùng, từng miền, chủ yếu là âm nhạc cung đình. Âm nhạc phương Đông không nặng về phối khí cho dàn nhạc mà diễn tấu theo kiểu bè tòng trên cơ sở lòng bản cho trước, tức hứng. Âm nhạc Phương Đông có hình thức biểu diễn tức hứng trong hoà tấu cũng như độc tấu và kể cả trong thanh nhạc. Bài viết dưới đây sẽ cho bạn thấy hiểu rõ hơn về nhạc cụ sử dụng cho nền âm nhạc phương Đông.

Các nhạc cụ ở phương Đông hết sức phong phú về chủng loại và nhiều về số lượng, thường được chế tác từ những chất liệu gần gũi với thiên nhiên như: trống đồng, trống da, đàn đá… Tiêu biểu nhất là nước Trung Quốc ở khu vực Đông Á, ngay từ thời thượng cổ đại (8000 năm trước Công nguyên đến thế kỷ 11 trước Công nguyên) đã xuất hiện một số nhạc cụ cổ sơ như: kèn Lá, sáo Xương Chim, chuông, thanh la, não bạt… Các loại nhạc cụ phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc là: đàn Sắt, đàn Cầm, đàn Tranh, sáo, tiêu, chuông, khánh… Thời Tây Chu, Xuân Thu – Chiến quốc (thế kỷ 11 đến năm 221 trước Công nguyên), người ta đã xác định được phương pháp phân loại  Bát âm – tám loại chất liệu được lấy từ thiên nhiên – để chế tạo nhạc cụ: Kim (chuông) – Mộc (mõ) – Thổ (trống đất) – Thạch (khánh đá) – Cách (trống da) – Bào (trống bằng trái bầu) – Ti (đàn dây) – Trúc (sáo). Phương pháp phân loại nhạc cụ này có liên quan đến  Phật giáo, liên quan đến quan niệm về Bát quái (Càn, Khảm, Cung, Ly, Cấn, Chấn, Khôn, Đoài), và nguyên tắc Bát âm này đến nay vẫn là một trong sáu cách phân loại nhạc cụ trên thế giới. Cách phân loại nhạc cụ theo chất liệu sẽ dẫn tới sự khác nhau trong âm sắc của các nhạc cụ và dẫn đến cách biên chế các dàn nhạc cũng được dựa vào chất liệu nhạc cụ. Hơn nữa, người Trung Quốc chế tạo nhạc cụ đều có ít nhiều dựa trên cơ sở học thuyết Âm – Dương, Ngũ hành, chu kỳ tự nhiên của trời – đất. Ví dụ như: đàn Tranh có kích thước dài 3 thước, 6 tấc, 5 phân (quan niệm một năm có 365 ngày), ngựa đàn không cố định (bởi liên quan đến trăng sao có lúc khuyết), thường cao 8 tấc, mặt trên cổng đại diện cho mặt trời, mặt dưới phẳng đại diện cho mặt đất, có 2 chân theo quan niệm âm – dương), 16 dây (8 x 2)…

Tại Nam Á có Ấn Độ là đại diện tiêu biểu với hệ thống nhạc cụ riêng rất đặc sắc. Có các nhạc cụ tiêu biểu làm bằng Bầu, Bí, bộ gõ bằng Da được vỗ bằng tay (trên thế giới các nhạc cụ làm bằng chất liệu như vậy đều có nguồn gốc từ Ấn Độ. Các nhạc cụ tiêu biểu có ảnh hưởng đến khu vực như: đàn Sarasvati, đàn Vina (4 dây), đàn Sitar (7 dây, đánh 1 dây còn 6 dây kia đệm), sáo Pungi (kèn thổi cho múa rắn, có tần số rất hợp với con rắn), trống Baya (1 mặt vỗ bằng tay), trống Tabla (2 mặt vỗ bằng tay)…

Tại khu vực Tây Á (nhất là các nước Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, khối Ả Rập), nhạc cụ được chia theo bốn hệ: dây – hơi – màng rung – tự thân vang. Đây cũng là một trong sáu cách chia trên thế giới. Ngoài ra, vùng Tây Á có nhiều nhạc cụ liên quan, làm tiền đề cho các nhạc cụ được sử dụng phổ biến trên thế giới như: đàn Lia, kèn Trompet, đàn Setarm, đàn Ud. Mặt khác, việc sử dụng các nhạc cụ chơi nhạc dân gian và chơi nhạc cổ điển được phân biệt rất rõ ràng: nhạc cụ chơi âm nhạc dân gian (đàn Kanun, Rababa, Rubab, trống Reeq…); nhạc cụ chơi âm nhạc cổ điển (đàn Santur, sáo Nay, trống Darabuka, kèn Balaban, đàn Setar, đàn Ud…).

Các nhạc cụ của khu vực Đông Nam Á phần lớn được chế tác bằng đồng (cồng chiêng, trống Đồng…). Trong các nhạc cụ gõ bằng đồng ở Đông Nam Á thì trống đồng và cồng chiêng thường được sử dụng nhiều. Trống đồng được coi là một vật thiêng; nó là di vật lịch sử rất quan trọng đại diện cho nền văn hoá đồ đồng đã từng phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á mà Việt Nam chính là trung tâm lớn nhất. Đông Nam Á còn là khu vực có rất nhiều tre nứa, do vậy, các nhạc cụ được chế tác bằng tre nứa chiếm số lượng lớn nhất và luôn đóng vị trí quan trọng trong biên chế của các dàn nhạc. Các nhạc cụ tiêu biểu ở đây là: đàn Bầu, đàn T’rưng của Việt Nam; Kenetok (một loại mõ tre) của Thái Lan); Wa-let-hkok(đàn bằng ống tre), Pattala (đàn gồm 24 thanh tre) của Myanmar; Gander Wayang(đàn gồm 10 thanh tre đặt trên miệng 10 ống tre làm hộp cộng hưởng) của Indonexia; …Đặc biệt Philipin có nhiều nhạc cụ bằng tre nứa nhất: Tongatong(gồm 6 ống tre), Onnat(khẩu cầm), Baling bing(nhạc cụ bằng ống nứa, có 8 loại khác nhau)… Và nổi bật nhất ở vùng này là có hoà tấu dàn nhạc gồm các nhạc cụ được chế tác từ tre, trúc, nứa.

Ngoài ra, âm nhạc Phương Đông còn có cách biên chế dàn nhạc đặc biệt mà âm nhạc Phương Tây không có như: dàn nhạc hòa tấu các nhạc cụ có độ vang lớn (Triều Tiên), dàn nhạc hòa tấu cồng chiêng (vùng Đông Nam Á), dàn nhạc hòa tấu Ti – Trúc…

Có thể thấy, nền âm nhạc và nhạc cụ của phương Đông vô cùng phong phú, và bài viết không thể tổng hợp hết được. Hi vọng sẽ gặp bạn ở các bài viết sau để có thể phân tích kỹ hơn. Xin chào!

reviewnhaccu